Răng
miệng là bộ phận đầu tiên của hệ thống tiêu hóa đảm nhiệm việc nhai và
nghiền thức ăn, nhằm cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể.
Khi ăn nhai kỹ giúp ngon miệng, làm quá trình tiêu hóa hấp thụ thức ăn
dễ dàng và tốt hơn “Nhai kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa”.
Trẻ
sơ sinh và trẻ tập đi cũng có nguy cơ bị bệnh sâu răng như những trẻ
lớn hơn hoặc người trưởng thành. Chăm sóc răng cho trẻ cần phải được
bắt đầu từ lúc mới sinh. Tập thói quen vệ sinh răng miệng sớm giúp cho
bé có hàm răng khỏe mạnh.
Những ảnh hưởng khi trẻ mắc bệnh răng miệng.
Khi
mắc bệnh răng miệng, miệng trẻ thường bị hôi, ăn uống kém do đó trẻ dễ
bị biếng ăn, nặng hơn có thể mất ngủ, gầy sút nhanh nếu kéo dài có khả
năng dẫn đến suy dinh dưỡng. Nếu mất răng sẽ phát âm không chuẩn, làm
ảnh hưởng đến sinh hoạt và học tập trong lứa tuổi học sinh.
Các
bệnh nhiễm khuẩn ở răng miệng là một trong những nguyên nhân trực tiếp
gây nhiễm khuẩn ở các bộ phận gần như: viêm họng, viêm mũi, viêm xoang
hay gây viêm các cơ quan xa hơn như: tim, thận, khớp.
Ngoài
ra, khi cơ thể thiếu các yếu tố vi lượng cũng gây ảnh hưởng đến quá
trình mọc răng: thiếu vitamin C gây chảy máu lợi do thành mạch yếu,
thiếu vitamin D gây rối loạn chuyển hóa xương làm răng mọc chậm, thiếu
canxi, flour làm răng yếu dễ bị sâu.
Sâu
răng là một bệnh ở tổ chức cứng của răng, làm tiêu dần các chất vô cơ
và hữu cơ ở men và ngà răng thành lỗ sâu. Nguyên nhân gây bệnh sâu răng
là vi khuẩn, đường trong thức ăn và thời gian để vi khuẩn và đường tồn
tại trong miệng.
Triệu
chứng: Thông thường khó nhận biết vì khi các lỗ sâu răng xuất hiện thì
bệnh đã tiến triển được một thời gian dài, khi thấy đau là sâu răng đã
bước sang giai đoạn trầm trọng.. Nếu răng sâu không được hàn, răng tiếp
tục bị phá hủy, lỗ sâu lớn dần và vào đến tủy, lúc ấy bệnh nhân có thể
đau nhức dữ dội thành cơn, tự nhiên không ăn cũng đau. Khi sâu răng đến
tủy không được điều trị kịp thời có thể có nhiều biến chứng khác như
viêm quanh cuống răng, áp xe hay nặng có thể hình thành trong xương gây
viêm mô tế bào, viêm xương, viêm hạch….
Viêm
lợi: Bệnh nhân có cảm giác ngứa lợi, khó chịu, lợi sưng đỏ, dễ chảy máu
khi chạm vào. Trẻ ở lứa tuổi mọc răng cũng rất hay viêm lợi, lợi đỏ,
ngứa , chảy rãi nhiều. Trẻ hay cho tay hoặc các vật lạ vào miệng để cắn,
hay cáu bẳn, bồn chồn, mệt mỏi, mất ngủ, biếng ăn…có thể sốt khoảng 38
độ C, có hạch dưới hàm.
Bệnh viêm quanh răng:
Khi bệnh viêm lợi không được quan tâm và điều trị thì sẽ phát triển
thành bệnh viêm quanh răng. Lợi sẽ dần dần tụt khỏi răng, tạo nên những
túi lợi sâu, tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển và làm trầm trọng
thêm mức độ của bệnh. Không những thế, bệnh còn làm cho xương và dây
chằng bao bọc quanh răng cũng bị tiêu huỷ dần, khiến cho răng không có
chỗ dựa, trở nên lung lay và cuối cùng sẽ rụng. Dấu hiệu của bệnh viêm
quanh răng: hôi miệng, sưng, đỏ lợi, chảy máu lợi, cảm giác đau khi
nhai, răng lung lay..
Chứng chảy máu chân răng: Gặp phải khi chăm sóc vệ sinh răng không tốt dẫn đến viêm lợi, đánh răng không đúng cách làm tổn thương lợi...
Dấu hiệu của bệnh: chân
răng sưng, đỏ, đau. Khi nói hay thở, miệng có mùi hôi, chân răng sưng,
răng dễ lung lay, động vào răng không đau nhưng đau vùng lợi xung quanh.
Phòng bệnh
Chải răng:
lấy sạch mảng bám ở răng, xoa nắn lợi nhẹ nhàng, làm sạch khe lợi. Chọn
bàn chải vừa miệng, giúp đưa bàn chải vào miệng dễ dàng, lông bàn chải
không mềm quá hoặc cứng quá. Chải răng sau khi ăn, trước khi đi ngủ và
chải đủ ba mặt răng: mặt ngoài, mặt trong và mặt nhai. Chải răng xoay
tròn với răng cửa, chếch 45 độ đối với răng hàm trong 3 phút.
Hạn chế dùng đường: Đối
với mọi lứa tuổi đều không nên ăn nhiều đường. Trẻ em không nên ăn bánh
kẹo trước lúc đi ngủ hay trước bữa ăn, không ăn vặt mà nên ăn thành
bữa, ăn xong phải súc miệng, đánh răng ngay.
Làm cho men răng trở nên chắc hơn bằng sử dụng flour: trẻ từ 6 – 15 tuổi có thể súc miệng với dung dịch muối. Đánh răng bằng thuốc đánh răng có flour.
Khám định kỳ:
trẻ cần được khám răng 6 tháng 1 lần. Khám răng đều đặn như vậy sẽ giúp
phát hiện những răng chớm bị sâu để được điều trị sớm, tránh biến
chứng.
Ngoài
ra, cần tránh cho trẻ những thói quen gây nguy hại cho răng, xương ổ
răng cũng như phần mô mềm như mút ngón tay, đẩy lưỡi, cắn môi, má hay ăn
móng tay, nghiến răng, thở bằng miệng.