Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi đồng bào và bộ đội (Vệ Quốc quân và dân quân du kích Tả Ngạn, Liên khu 3”, Người viết ngày 10 tháng 11 năm 1951, đăng trên Báo Quân đội nhân dân, số 34, ra ngày 01 tháng 12 năm 1951, trong bối cảnh sau khi nhận được báo cáo của đồng bào và bộ đội Tả Ngạn, Liên khu 3 về thành tích tiêu diệt địch, Bác đã gửi thư khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ, quân, dân, chính thuộc Liên khu 3. Bác nhắc nhở: “Trường kỳ kháng chiến nhất định gian khổ và nhất định thắng lợi... Cán bộ và bộ đội nhất định phải đi sát với nhân dân vì lực lượng của nhân dân là vô cùng mạnh mẽ... Chúng ta quyết chiến quyết thắng, nhưng tuyệt đối không được chủ quan khinh địch...”.
Với tư duy chiến lược và tầm nhìn xa trông rộng, Người đã chỉ ra được cội nguồn sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân; từ cơm ăn, áo mặc, xe cộ đi lại đến vũ khí đánh giặc đều do mồ hôi công sức nhân dân mà có. Người khẳng định: “Không có dân thì không có bộ đội”, “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Chỉ có đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, dựa vào dân, được nhân dân tin yêu như con em ruột thịt thì quân đội mới có được những thuận lợi trong chiến đấu, công tác, sản xuất cũng như trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. Cách xa dân, không gắn bó với nhân dân, không liên hệ mật thiết với nhân dân, không dựa vào dân thì quân đội không thể có sức mạnh, không thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã cho thấy, nguồn gốc sức mạnh của quân đội không chỉ bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự quan tâm của các tổ chức chính trị xã hội, từ sức mạnh bên trong của quân đội, mà còn bắt nguồn từ sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân, sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân đối quân đội.
Lời dạy của Bác năm xưa đến nay vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi người, cần được triển khai sâu rộng trong toàn xã hội và toàn quân. Đối với quân đội, phải phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân; tôn trọng, giúp đỡ, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; một lòng, một dạ chiến đấu bảo vệ nhân dân, luôn luôn giữ nghiêm kỷ luật quan hệ quân - dân, không phụ lòng tin yêu của nhân dân; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, “xóa đói giảm nghèo”, xây dựng nông thôn mới, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia phong trào “Đền ở đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”... Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng học tập, rèn luyện, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, thực hiện tốt lời dạy của Người: “phải dựa vào nhân dân, không được xa rời dân, nếu không thế thì sẽ thất bại”.
_____________
Ngày 10/11/1945, dự “Ngày Phụ nữ ủng hộ Nam bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương Vàng cho bà Vương Thị Lai (hiệu Lợi Quyền) là người đi đầu cuộc vận động quyên góp trong “Tuần lễ Vàng”. Bác biểu dương: “Bà Vương Thị Lai là đại biểu của lòng hăng hái và hy sinh cho tất cả phụ nữ Việt Nam” và còn gửi một tấm chân dung của mình tặng cho ông Nguyễn Sơn Hà ở Hải Phòng là người quyên góp nhiều thứ hai cho Quỹ Quốc phòng.
Tháng 11/1945, trong điện mừng lãnh tụ các đảng phái vừa giành được thắng lợi trong cuộc tuyển cử ở Pháp, Bác khẳng định lập trường: “Tôi lấy làm tiếc rằng, trong tình thế này, Chính phủ Pháp còn muốn khuyến khích bọn thực dân nhờ quân đội Anh giúp sức, gây nên những cuộc đổ máu tại Nam Bộ Đông Dương và tàn sát lương dân để mưu đặt lại sự đô hộ Pháp. Nhân danh cho những lý tưởng tự do, bình đẳng và bác ái, khẩu hiệu của nước Pháp Cộng hòa và nhân danh chính sách hòa bình của Liên hợp quốc, tôi kêu gọi các ngài và xin các ngài xét đoán đến những hành động bất công ấy... Nếu nước Pháp chịu thừa nhận nền độc lập của Việt Nam, dân chúng Việt Nam sẽ hết sức hòa hảo với nước Pháp. Trái lại thế, dân chúng Việt Nam quyết rỏ đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho sự tự do”.
Ngày 10/11/1946, đến thăm chùa Thầy gần Hà Nội, hỏi thăm nhân dân và được biết năm nay được mùa, Bác căn dặn: “Lúa tốt thì dân được no. Nhưng phải biết tiết kiệm. Trước đây ta mất nước nên bị mù chữ, bây giờ nước nhà độc lập, dân phải lo học hành và phải nhớ đoàn kết, đại đoàn kết, sản xuất tốt, công tác tốt và bảo vệ thắng cảnh”. Cùng ngày, Bác dự “Ngày Thanh niên quốc tế” và phát biểu: “Trong thanh niên còn có rất nhiều người yếu ớt, cán bộ, học sinh của Trường thể dục phải làm cho toàn thể đồng bào cùng khỏe, phải phổ thông hóa, đại chúng hóa, dân chủ hóa thể dục”.
Ngày 10/11/1947, Bác viết “Thư gửi ông Giám đốc và toàn thể nam nữ giáo viên Bình dân học vụ Khu III” khen ngợi tỉnh Hải Dương có 6 làng toàn dân biết chữ, “đồng thời tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy cho đồng bào học chữ, làm tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa đông binh sĩ, giúp đồng bào tản cư, khoa học thường thức”.
Ngày 10/11/1949, Bác viết “Thư khen các nhân viên và cơ quan quân, dân, chính đã đánh thắng giặc lụt”: “Đó là một thắng lợi bộ phận trong thắng lợi chung của toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến... Với sức đoàn kết và thi đua, chúng ta đã đánh thắng giặc lụt, thì cũng với sức đoàn kết và thi đua, chúng ta quyết đánh tan giặc thực dân”.
Ngày 10/11/1968, Bác nghe các đồng chí Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh từ chiến trường miền Nam ra báo cáo và được mời lưu lại dùng cơm với Bác.